Azofoska là loại phân bón phổ biến dùng làm vườn và trồng rau, phù hợp với mọi loại cây trồng, các loại đất khác nhau và mọi khí hậu. Thành phần là hỗn hợp nitơ, phốt pho và kali với nhiều tỷ lệ khác nhau. Cư dân mùa hè có thể chọn azofoska với tỷ lệ các yếu tố mong muốn. Phân bón được áp dụng ở dạng hạt hoặc dung dịch dinh dưỡng. Azofoska là nơi lý tưởng để cho ăn vào mùa xuân.
Khi nào là thời điểm tốt nhất để sử dụng nó?
Tên ít được sử dụng hơn của azofoska là nitroammofoska. Bố cục hiệu quả nhất là có tỷ lệ NPK bằng nhau – 16-16-16. Vào mùa xuân, azofoska được bón khi đào đất khi hình thành các rặng núi.
Điều này thường được thực hiện khi trái đất khô đi và ấm lên một chút. Thời gian cụ thể phụ thuộc vào vùng khí hậu nơi địa điểm tọa lạc. Đối với cây rau và dâu tây trong vườn, có thể bón nitroammophoska vào lỗ khi trồng cây con:
- ở khu vực phía Nam công việc này được thực hiện vào tháng 4;
- ở khu vực giữa, cây con được cấy xuống đất vào khoảng giữa tháng 5;
- ở miền Bắc, công việc trồng trọt được hoãn lại cho đến đầu tháng Sáu.
Trong tương lai, phân bón cũng được áp dụng. Vào mùa hè bón dưới dạng dung dịch dinh dưỡng xuống đất hoặc dùng để phun (giảm nồng độ 2 lần). Azophoska sẽ hoạt động hiệu quả nhất ở nhiệt độ trên +10°C.
Các loại azofoska phổ biến
Thành phần tiêu chuẩn có tỷ lệ NPK bằng nhau được bón cho cây táo, anh đào, mận, lý chua, lý gai khi đào đất. Đối với cây rau giống bón phân vào hố trồng, trộn nhẹ với đất. Nitroammophoska này được sử dụng trên đất có bất kỳ cấu trúc và độ chua nào.
Phân bón NPK 22-11-11 thích hợp nhất để bón vào mùa xuân vì hàm lượng nitơ của nó là tối đa. Loại azofoska này đặc biệt hữu ích đối với đất bạc màu. Phân bón giúp nhanh chóng khôi phục lại đặc tính dinh dưỡng của đất.
Chế phẩm có NPK 19-9-19 được sử dụng trên đất giàu lân. Loại đất như vậy là đặc trưng của các khu vực phía Nam của đất nước, nơi các nguyên tố vĩ mô không bị nước tan chảy cuốn trôi vào mùa xuân.
Azofoska tăng cường khả năng miễn dịch của cây trồng, giúp cây thích ứng với sự thay đổi của thời tiết, có tác động tích cực đến chất lượng và số lượng thu hoạch, tăng thời hạn sử dụng của quả thu hoạch.
Tỷ lệ bón phân
Cách sử dụng azofoska được ghi trên bao bì. Các khuyến nghị sử dụng từ nhà sản xuất có tính đến đặc điểm của các loại cây trồng cụ thể. Loại được sử dụng phổ biến nhất (NPK 16-16-16) ở dạng khô được bón với lượng 30-40 g trên một mét vuông. mét. Để chuẩn bị phân bón lỏng, sử dụng 25-30 g hạt cho mỗi xô nước. Dung dịch được thêm vào luống với lượng 5-6 lít trên 1 mét vuông. mét. Trước khi trồng cây con, thêm 0,5 muỗng cà phê nitroammophoska vào hố.
Không nên vượt quá liều lượng phân bón, nếu không lượng nitrat dư thừa có thể tích tụ trong quả. Và nói chung, thừa phân sẽ có hại cho cây trồng hơn nhiều so với thiếu.Cứ 2 năm một lần, azofoska được thay thế bằng phân hữu cơ (phân hữu cơ, mùn, dịch thảo dược) để đất không bị quá bão hòa với các hợp chất khoáng.
Đôi khi việc đo lượng phân bón cần thiết từ gói trở thành một vấn đề đối với cư dân mùa hè. Bạn có thể làm điều này bằng cách sử dụng dữ liệu dưới đây:
- trong 1 thìa cà phê – 4 g;
- trong 1 muỗng canh. thìa – 13 g;
- trong hộp diêm – 15 g;
- trong một tấm kính mặt – 150 g.
Khi chuẩn bị dung dịch, một lượng phân bón đo được trước tiên được trộn với 1 lít nước ấm, khuấy chế phẩm cho đến khi hạt hòa tan hoàn toàn. Sau đó, chất cô đặc được pha loãng bằng lượng nước còn lại.
Azofoska là loại phân bón được đặc trưng bởi hiệu quả, độc tính thấp, sẵn có và chi phí thấp. Hỗn hợp khoáng sẽ cung cấp cho cây những nguyên tố cơ bản cần thiết cho sự sinh trưởng và đậu quả. Hạt thường được áp dụng vào mùa xuân và mùa thu. Vào mùa hè, bón phân dưới dạng dung dịch.